Hiện nay hầu hết mọi giao dịch trên thực tế đều đưuọc các chủ thể tham gia xác lập trên cơ sở hợp đồng như: Hợp đồng dân sự, hợp đồng kinh tế, hợp đồng thương mại,… Các loại hợp đồng khác nhau thì thường có nội dung khác nhau, tuy nhiên, hợp đồng nói chung bao gồm các nội dung cơ bản. Dưới đây Công ty luật Việt An sẽ đưa ra các nội dung cơ bản của một hợp đồng nói chung, bao gồm:
Hiện nay hầu hết mọi giao dịch trên thực tế đều đưuọc các chủ thể tham gia xác lập trên cơ sở hợp đồng như: Hợp đồng dân sự, hợp đồng kinh tế, hợp đồng thương mại,… Các loại hợp đồng khác nhau thì thường có nội dung khác nhau, tuy nhiên, hợp đồng nói chung bao gồm các nội dung cơ bản. Dưới đây Công ty luật Việt An sẽ đưa ra các nội dung cơ bản của một hợp đồng nói chung, bao gồm:
Đây là những yếu tố quan trọng có liên quan đến việc triển khai thực hiện công việc và tác động đến hiệu quả của quá trình cung ứng dịch vụ. Do đó, các bên trong hợp đồng cần phải thỏa thuận rõ, cụ thể về thời gian, địa điểm thực hiện dịch vụ logistics.
Trong hợp đồng cung ứng dịch vụ nói chung, hợp đồng dịch vụ logistics nói riêng, thời gian thực hiện hợp đồng thương là một thời điểm hay một khoảng thời gian nhất định mà trong thời điểm hoặc khoảng thời gian đó người có nghīa vụ phải hoàn thành nghĩa vụ của mình nhàm thòn mãn lợi ích của bên có quyền, Theo quy định tại Điều 278 của Bộ luật Dân sự năm 2015: “Thời hạn thực hiện nghĩa vụ do các bên thỏa thuận, theo quy định của phùn luat hoǎc theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền.. Trường hợp không xác định được thời hạn thực hiện nghĩa vụ theo quy định tại khoản 1 Điều này thì mỗi bên có thể thực hiện nghia nu hoǎc yêu cầu thực hiện nghǐa vụ vào bǎt cứ lúc nào nhưng phải thông báo cho bên kia biết trước một thời gian hợp lý".Nhu vay nêu các bên trong hợp đồng dịch vụ logistics có thỏa thuận cụ thể vể thời gian thực hiện cung ứng dịch vụ logistics thì bên cung ứng dịch vụ phải thực hiện đúng theo thời hạn dó. Việc hoàn thành công việc trước thời hạn (cho dù là có lợi cho khách hàng) vẫn cần sự đồng ý của khách hàng và khi đó được coi là hoàn thành đúng thời hạn. Nếu trong hợp đồng không thỏa thuận cụ thể về thời hạn thực hiện dịch vụ logistics thì theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, bên kinh doanh dịch vụ logistics có thể thực hiện cung ứng dịch vụ bất cú lúc nào, bên khách hàng cǔng có thể yêu cầu bên thương nhân kinh doanh thực hiện nghǐa vụ bất cứ lúc nào, kèm theo đó là phải thông báo trước một thời gian hợp lý.Nhưng “thời gian hợp lý” là bao lâu thì cho đến nay vẫn chưa thể xác định được. Do vậy, để tránh xảy ra tranh chap và không làm giảm hiệu quả của quá trình cung ứng dịch vụ, các bên không nên bỏ qua thời hạn thực hiện dịch vụ logistics, cần quy định cụ thể trong hợp đồng.
Địa điểm thực hiện nghĩa vụ là vị trí không gian xác định để các bên chủ thể trong quan hệ nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ của mình. Trong một số hợp đồng logistics việc xác định rõ địa điểm thực hiện nghĩa vụ là rất quan trọng, ví dụ như các hợp đồng vận chuyển hàng hóa. Bên kinh doanh dịch vụ vận chuyển cần phải biết được chính xác địa điểm nhận hàng, địa điểm giao hàng. Địa điểm có thể được nêu rõ ngay trong hợp đồng, nhưng cūng có thể quá trình thực hiện hợp đồng logistics, khi đó bên thay doi trong mới cho phát sinh kinh doanh dịch vụ logistics.Moi chi phí thay đôi dịa do t diêm thực hiện dịch vụ se do bên khách hàng chịu trách nhiệm.Trong trường hợp các bên khongthoa vê thuận cụ thể địa điểm thực hiện dịch vụ thì địa điểm thực hiện dịch vụ được xác định theo quy định của pháp luật. Khoản 3 Bộ luật Hàng hải Việt Nam nǎm 2015 sửa đổi, bổ sung Điều 178 dinh: nǎm 2018 quy d "trường hợp trong hợp đồng không có thỏa thuận cụ thể về nơi bốc hàng tại cảng nhận hàng thì người vận chuyển đưa tàu biển đến địa điểm được coi là nơi bốc hàng theo tập quán địa phương”.
hợp đồng logistics là hợp đồng song vụ: quyền của bên này tương ứng với nghĩa vụ của bên kia và ngược lại. Các bên sẽ phải thỏa thuận và đưa ra các yêu cầu cũng như quyển lợi trong quá trình thực hiện hợp đồng của từng bên và tuân thủ theo những thỏa thuận đó trong suốt thời gian có hiệu lực của hợp đồng. Căn cứ vào tính chất phức tạp của hoạt động logistics, bản chất mối quan hệ giữa các bên, pháp luật đã có những quy định về quyền và nghĩa vụ cơ bản nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của các bên trong hợp đồng logistics. Căn cứ vào Điều 235 và Diểu 236 Thương mại năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2017,2019 thấy cụ thể:
a) Về quyền và nghĩa vụ của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics:
Thứ nhất, được hưởng thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác;
Đáy là quyền quan trọng và cơ bàn nhất của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics bởi vì mục đích của thương nhân này khi tham gia hợp đồng logistics là hướng děn việc tìm kiếm lợi nhuận bằng cách thực hiện thay cho chủ thể khác một hoǎc nhiều hoạt động trong chuoi dịch vụ logistics. Vói tính chǎt chuyên nghiệp và mục tiêu hoạt động kinh doanh một cách lâu dài, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics thường xây dựng bảng giá dịch vụ cu thê. Khách hàng khi đồng ý giao kết hợp đồng cǔng là chán nhận với mức giá dịch vụ của doanh nghiệp và phāi thanh toán cho họ khi họ hoàn thành công việc được giao. Vê cơ bản, thù lao dịch vụ được tính toán sao cho hợp lý và tương xứng với công sức của thương nhân kinh doanh logistics trong toàn bộ quá trình thực hiện dịch vụ và có thể xác định được trước khi tiến hành công việc. Nhung trong khi thực hiện cung ứng dịch vụ không tránh khỏi việc có các chi phí khác phát sinh tác động trực tiếp đến hiệu quả cũng như kết quả thực hiện công việc được giao. Vì vậy, bên kinh doanh dịch vụ cũng cần thiết phải được hưởng các chi phí liên quan này.
Thứ hai, trong quá trình thực hiện hợp đồng, nếu có lý do chính đáng vì lợi ích của khách hàng thì thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics có thể thực hiện khác với chỉ dẫn của khách hàng, nhưng phải thông báo ngay cho khách hàng.
Về mặt nguyên tắc, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics phải tuân thủ các chỉ dẫn của bên khách hàng. Việc làm trái vái những chỉ dẫn đã thỏa thuận sẽ là một trong những cǎn cú dẫn đến việc phạm hợp đồng và sẽ phải chịu các chế tài kèm theo.
Tuy nhiên, có những trường hợp thương nhân nhận thấy việc thực hiện chỉ dẫn đó sẽ đem đến những bất lợi cho khách hàng thì họ thực hiện khác đi, nhưng phải chúng minh lý do chính đáng khiến mình phải làm trái chỉ dẫn được sự chính và mục đích của hành vi đó là vì lợi ích của khách hàng. Điều quan trọng là ngay khi thực hiện khác với chỉ dẫn của khách hàng,thương nhân kinh doanh logistics phái thông báo ngay cho khách hàng biết.Nếu không có thông báo thì lý do dù có chính đáng đến đâu bên kinh doanh dịch vụ logistics cūng có thế bị coi là vi phạm hợp đồng.
Thứ ba, khi xảy ra trường hợp có thể dẫn đến việc không thực hiện được một phần hoặc toàn bộ những chì dǎn của khách hàng thì phải thông báo ngay cho khách hàng để xin chỉ dān.
Nếu như trường hợp trên thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics vì lợi ích của khách hàng mà phải thực hiện khác chi dǎn khách hàng đua ra, thì trong trường hợp này, pháp luật đặt ra nghĩa vụ thông báo xin chỉ dẫn khi không thực hiện được một phần hoặc toàn bộ những chỉ dẫn của khách hàng. Nếu không thực hiện nghĩa vụ thông báo này thì việc không thực hiện được chỉ dẫn của khách hàng cũng sẽ bị coi là vi phạm.
Thứ tư, trường hợp không có thỏa thuận về thời hạn cụ thể thực hiện nghĩa vụ với khách hàng thì phải thực hiện các nghĩa vu của mình trong thời hạn hợp lý.
Việc không quy định thời hạn cụ thể thực hiện nghĩa vụ với khách hàng sẽ dẫn đến việc bên khách hàng sẽ phải chờ đợi, không thỏa mãn được nhu cầu của mình khi giao kết hợp đồng. Do đó, pháp luật đặt ra nghĩa vụ đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics trong trường hợp này vẫn phải thực hiện nghĩa vụ trong một thời hạn hợp lý. Mặc dù khó để xác định thời hạn hợp lý cụ thể là thời hạn như thế nào nhưng xét cho cùng, để bảo đảm mối quan hệ hợp đồng cũng như uy tín của mình,bên cung ứng dịch vụ phái cung cấp dịch vụ nhanh nhat co thể,thường là ngay sau khi hợp đồng có hiệu lực.
Thứ nǎm, khì thực hiện việc vận chuyển hàng hóa, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics phai tuan thù các quy định của pháp luật và tập quán vận tải.
Đây là nghĩa vụ mang tính khái quát chung dǎt ra nếu thương nhân kinh doanh thực hiện việc vận chuyển hàng hóa.Rủi Ro tiêm án trong quá trình thực hiện vận chuyển là rát nhiêu. Do vậy, pháp luật yêu cầu thương nhân đó phải tuân thủ những nguyên tắc mà pháp luật đặt ra, nếu không có quy định của pháp luật thì phải tuân theo tập quán vận tải.
Thứ sáu, quyển cẩm giữ, định đoạt hàng hóa.
Pháp luật trao cho thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics quyền cầm giữ hàng hóa và các chứng từ có liên quan đến hàng hóa để bảo đảm nghĩa vụ thanh toán của khách hàng nhưng phải thông báo ngay bằng văn bản cho khách hàng. Trong trường hợp khách hàng không trả nợ thì thương nhân có quyền định đoạt sǒ hàng hóa cấm giữ dó.
Trước khi định đoạt hàng hóa, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics phái thông báo ngay cho khách hàng biết về việc định đoạt hàng hóa đó. Mọi chi phí cẩm giữ, định đoạt hàng hóa do khách hàng chịu. thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics được sử dụng số tiền thu được từ việc định đoạt hàng hóa để thanh toán các khoản mà khách hàng nợ mình và các chi phí có liên quan; nếu số tiền thu được từ việc định đoạt vượt quá giá trị các khoản nợ thì số tiền vượt quá phải được trả lại cho khách hàng. Kể từ thời điểm đó, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics không phải chịu trách nhiệm đối với hàng hóa hoặc chứng từ đã được định đoạt'.
b) Về quyền và nghĩa vụ cơ bản của khách hàng
Khách hàng là bên được thụ hưởng kết quả dịch vụ do thương nhân kinh doanh cung cấp. Khi giao kết hợp đồng họ dā xác định rõ những yêu cầu đối với công việc giao cho bên cung ứng dịch vụ. vậy, quyền quan trọng nhất của họ là được hướng dẫn, kiểm Do giám sát việc thực hiện hợp đồng để mọi việc được diễn ra tra, như mong muốn của họ.
Tương ứng với đó, nghĩa vụ quan trọng nhất phái thực hiện đó là thanh toán cho thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics mọi khoản tiền đã đến hạn thanh toán. Ngoài ra, để hỗ trợ cho việc thực hiện dịch vụ được hiệu quả, bên khách hàng trong hợp đồng logistics cân phải thực hiện các nghĩa vụ khác nhau: cung cấp đầy đủ chỉ dẫn cho thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics; thông tin chi tiết,đầy đủ, chính xác và kịp thời về hàng hóa cho thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics; đóng gói, ghi ký mā hiệu hàng hóa theo hợp đồng mua bán hàng hóa, trừ trường hợp có thỏa thuận để thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics đảm nhận công việc này; bồi thường thiệt hại, trà các chi phí hop lý phát sinh cho thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics nếu người đó đã thực hiện đúng chỉ dẫn của mình hoặc trong trường hợp do lỗi của mình gây ra;
Những quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng logistics mà pháp luật đưa ra mang tính chất định hướng, các bên trong hợp đồng có quyền đưa ra các thỏa thuận riêng của mình tùy thuộc vào tính chất, múc dô dòi hoi ở công việc cũng như loại hàng hóa gắn liền với công việc đó. Tuy nhiên, nếu trong hợp đồng dịch vụ logistics các bên không có thỏa thuận về loại quyền và nghĩa vụ được pháp luật để cập, khi xảy ra tranh chấp, các bên có quyền căn cứ vào các quy định pháp luật để yêu cầu bên còn lại thực hiện theo đúng điều khoản đó.