Nghệ Sĩ Ưu Tú Và Nghệ Sĩ Nhân Dân

Nghệ Sĩ Ưu Tú Và Nghệ Sĩ Nhân Dân

Chủ tịch nước vừa có Quyết định về việc phong tặng danh hiệu vinh dự nhà nước, Nghệ sĩ Ưu tú cho 102 nghệ sĩ trên các lĩnh vực: Âm nhạc, Điện ảnh, Múa; Sân khấu, Phát thanh – Truyền hình. Các nghệ sĩ được vinh danh vì đã có nhiều cống hiến trong sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa dân tộc.

Chủ tịch nước vừa có Quyết định về việc phong tặng danh hiệu vinh dự nhà nước, Nghệ sĩ Ưu tú cho 102 nghệ sĩ trên các lĩnh vực: Âm nhạc, Điện ảnh, Múa; Sân khấu, Phát thanh – Truyền hình. Các nghệ sĩ được vinh danh vì đã có nhiều cống hiến trong sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa dân tộc.

Nghệ sĩ Ưu tú Thanh Loan tiếc và thương cho Thương Tín

Nghệ sĩ Ưu tú Thanh Loan được biết đến với vai Ni cô Huyền Trang trong bộ phim kinh điển của điện ảnh cách mạng Việt Nam - "Biệt động Sài Gòn", do Long Vân đạo diễn. Nữ nghệ sĩ nói, vai nữ chiến sĩ biệt động Huyền Trang là "nốt thăng đẹp đẽ nhất trong cuộc đời làm nghệ thuật". Mỗi khi nhắc đến, trong lòng bà luôn trào dâng cảm xúc tự hào vì đã thể hiện một vai diễn có sức sống vượt thời gian.

Nghệ sĩ Ưu tú Thanh Loan được biết đến nhiều với vai Ni cô Huyền Trang. Ảnh: TL

Ni cô Huyền Trang cũng là vai diễn cuối trong cuộc đời hoạt động nghệ thuật của Nghệ sĩ Ưu tú Thanh Loan. Sau thành công của "Biệt động Sài Gòn", bà chuyển sang làm đạo diễn phim tài liệu, giữ chức Phó Giám đốc Hãng phim Công an.

Đoàn diễn viên tham gia bộ phim "Biệt động Sài Gòn" thời đó giờ chỉ còn Thanh Loan, Thương Tín, Hà Xuyên, Hai Nhất. Theo Nghệ sĩ Ưu tú Thanh Loan, cách đây khoảng 3 – 4 năm, bà mới được gặp lại các đồng nghiệp trong chương trình "Ký ức vui vẻ".

"Cách đây khoảng 3- 4 năm tôi với Hà Xuyên, Thương Tín và Hai Nhất được mời tham gia chương trình "Ký ức vui vẻ". Trong cuộc gặp gỡ đó ai cũng vui vẻ và xúc động. Ngồi chờ trong hậu trường, chúng tôi nói chuyện nhiều lắm, toàn ôn lại chuyện cũ và hỏi thăm nhau. Hồi đó, anh Thương Tín chưa có yếu và thảm như bây giờ. Mọi người gặp nhau vẫn vui vẻ và chia sẻ nhiều kỷ niệm thời đóng chung phim "Biệt động Sài Gòn". Tôi nhớ anh Thương Tín có kể thỉnh thoảng vẫn được các đạo diễn mời đóng các vai nhỏ trong vài phim", Nghệ sĩ Ưu tú Thanh Loan tâm sự với Dân Việt.

Nghệ sĩ Ưu tú Thanh Loan cũng kể rằng, thời đóng chung phim "Biệt động Sài Gòn", nghệ sĩ Thương Tín rất đẹp trai, phong độ và hào quang rực rỡ lắm. Bao nhiêu cô gái và fan nữ si mê, thần tượng, hâm mộ.

"Thời đó chúng tôi không nói chuyện nhiều với nhau. Có lẽ anh Thương Tín vẫn hơi giữ kẽ với các diễn viên miền Bắc hay sao đó mà không nói chuyện nhiều. Cứ đến phim trường là vào công việc luôn. Tuy nhiên, những lúc giao lưu với mọi người trong đoàn phim thì anh Thương Tín vẫn là người rất vui vẻ, đôn hậu và tử tế. Một khi đã lao vào công việc là anh ấy cháy hết mình với đam mê. Anh ấy lúc đó là một ngôi sao sáng nhưng rất khiêm nhường và biết trước biết sau", Nghệ sĩ Ưu tú Thanh Loan chia sẻ.

Các nghệ sĩ "Biệt đồng Sài Gòn" hội ngộ trong chương trình "Kỳ ức vui vẻ". Ảnh: TL

Nghệ sĩ Ưu tú Thanh Loan trải lòng với Dân Việt rằng, những ngày qua bà có theo dõi các thông tin về nghệ sĩ Thương Tín trên mạng xã hội và báo chí. Bà cảm thấy tiếc và thương cho đồng nghiệp của mình vì những năm tháng tuổi già lại quá long đong, lận đận.

"Tôi thấy thương và tiếc cho anh Thương Tín. Anh ấy từng là một tên tuổi lừng lẫy của làng điện ảnh mà bây giờ lại ra thế. Cuộc đời "bèo dạt mây trôi" quá. Ngày xưa, Thương Tín được xem như "tài tử" của làng điện ảnh. Phim nào cũng muốn anh ấy tham gia vì có anh ấy tham gia thì phim mới hút khách. Và quả thật, phim nào Thương Tín tham gia cũng đều "thắng lớn" cả", Nghệ sĩ Ưu tú Thanh Loan bày tỏ.

Nghệ sĩ Ưu tú Thanh Loan tâm sự, 38 năm đã trôi qua, lứa khán giả của "Biệt động Sài Gòn" khi xưa giờ đã lớn tuổi, đã lên ông lên bà nhưng nhiều người vẫn nhớ tới bà, vẫn gọi bà là Ni cô Huyền Trang mỗi khi gặp. Thậm chí, hồi xưa, nhiều người vì quá yêu nhân vật Huyền Trang nên lấy tên đó để đặt tên cho con mình dù cuộc đời nhân vật này cũng thăng trầm, sóng gió…

Trước khi nổi tiếng với phim "Biệt động Sài Gòn", Nghệ sĩ Ưu tú Thanh Loan từng góp mặt trong nhiều bộ phim như: "Bài ca ra trận", "Tuổi thơ", "Bản đề án bị bỏ quên", "Phương án ba bông hồng"… Sở nhan sắc xinh đẹp, dịu dàng nên Nghệ sĩ Ưu tú Thanh Loan thường xuyên được giao những vai cô giáo, giao liên, kỹ sư… hiền lành, nhẹ nhàng.

Thời điểm tham gia phim "Biệt động Sài Gòn", Nghệ sĩ Ưu tú Thanh Loan đã có gia đình, đang làm đạo diễn cho Truyền hình an ninh. Trong chuyến đi công tác vào TP.HCM năm 1984, bà tình cờ gặp họa sĩ Trịnh Thái - người thiết kế mỹ thuật chính của phim.

Nghe họa sĩ nói chưa tìm được diễn viên đóng vai ni cô Huyền Trang dù phim đã quay một năm nay, bà liền đề xuất cho mình đọc kịch bản. Nhận thấy nhân vật có cá tính nổi bật, Thanh Loan quyết định xin phép cơ quan đi làm phim.

Để hoàn thành vai diễn, Thanh Loan phải cắt đi mái tóc dài bởi ngày xưa không có mũ cao su để nịt đầu. Tiếp đó, bà vào chùa Dược Sư ở 1 tuần; ăn cơm chay và tập cách tụng kinh, gõ mõ, đánh chuông; cách đi khất thực để giống như một người tu hành. Mặt khác, bà tập chèo ghe, ngâm mình trong sông nước Nam Bộ…

Có cả quá trình đóng góp và cống hiến nhưng vẫn chưa được phong Nghệ sĩ Nhân dân

Mặc dù có rất nhiều cống hiến và đóng góp cho sân khấu, cho điện ảnh Việt Nam nhưng đến bây giờ nghệ sĩ Thanh Loan vẫn chưa được phong tặng Nghệ sĩ Nhân dân. Năm 2021, sau khi đọc Nghị định 40/2021/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 89/2014/NĐ-CP quy định về xét tặng danh hiệu "Nghệ sĩ Nhân dân", "Nghệ sĩ Ưu tú"… xét thấy mình nằm trong diện "trường hợp đặc biệt dành cho các nghệ sĩ có cống hiến nổi trội, tài năng nghệ thuật xuất sắc nhưng thiếu giải thưởng" nên bà đã làm hồ sơ đề nghị xét tặng danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân trong đợt xét tặng lần thứ 10. Hồ sơ của bà đã được Hội đồng cấp cơ sở, Hội đồng cấp Bộ và Hội đồng cấp chuyên ngành thông qua. Nhưng lên đến Hội đồng cấp Nhà nước thì hồ sơ của bà bị đánh trượt.

Nghệ sĩ Ưu tú Thanh Loan có một quá trình dài cống hiến nhưng vẫn chưa được phong Nghệ sĩ Nghệ dân. Ảnh: TL

Rất nhiều người cảm thấy tiếc nuối cho Nghệ sĩ Ưu tú Thanh Loan vì bề dày thành tích, quá trình cống hiến và tên tuổi của bà đều được đồng nghiệp lẫn khán giả biết rất rõ. Trong suốt quá trình làm nghề, bà luôn để lại dấu ấn với các vai diễn, cả trên lĩnh vực sân khấu lẫn điện ảnh. Ngay cả đến lúc về hưu, bà vẫn tiếp tục cống hiến trong vai trò Quyền Chủ tịch của Hội điện ảnh Hà Nội, Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hà Nội; Phó Chủ tịch phụ trách Hội Điện ảnh Hà Nội.

Hỏi Nghệ sĩ Ưu tú Thanh Loan về ý định có tiếp tục làm hồ sơ đề nghị xét tặng danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân vào đợt tới, bà cho Dân Việt biết sẽ không bao giờ làm hồ sơ nữa. Năm nay, bà cũng đã ngoài 70 tuổi, không muốn mình tổn thương bởi những điều vô lí. Đã lâu lắm rồi, bà không còn bận tâm với chuyện danh hiệu, bởi với bà, danh hiệu cao quý nhất là được sống mãi trong lòng nhân dân. Nhân dân ghi nhớ từng vai diễn của bà, nhận ra bà mỗi khi gặp mặt. Với bà, đó là niềm hạnh phúc lớn lao mà không phải danh hiệu nào cũng mang đến được.

Nghệ sĩ Ưu tú Thanh Loan sinh năm 1951 trong gia đình có 8 anh em, không ai làm nghệ thuật. Tuổi thơ của nữ nghệ sĩ gắn bó với con phố Hàng Da (Hà Nội). Năm 15 tuổi, nghệ sĩ Thanh Loan đã nổi tiếng trong khu phố khi vừa xinh đẹp, ngoan hiền lại hát hay. Tháng 2/1967, bà nhập ngũ trường Nghệ thuật Quân đội, theo học lớp diễn viên rồi về công tác tại Đoàn kịch nói Tổng cục Chính trị.

Thuở nhỏ, ông từng theo học tại Collège de Mytho (nay Trường Trung học phổ thông Nguyễn Đình Chiểu, thành phố Mỹ Tho) và Trường Lasan Taberd ở Sài Gòn, nên thông thạo Pháp ngữ. Nhờ thế, ông có dịp tiếp cận những trước tác của nền văn học Pháp. Năm 1922, lúc mới 16 tuổi, ông gia nhập gánh hát Thầy Năm Tú ở Mỹ Tho, chính thức nhập tịch làng nghệ thuật cải lương. Nghệ sĩ Nhân dân Viễn Châu viết: “Năm 1922, anh Năm Châu đã là kép chính sáng giá nhất của ban cải lương Thầy Năm Tú ở Mỹ Tho. Anh là người tài giỏi, có ý chí và luôn nhìn xa trông rộng, nắm bắt tình thế để ứng biến cho nghề, cho sân khấu một cách thần thông”. Kể từ ấy, ông cùng một lúc đảm nhiệm nhiều công việc khác nhau, như quản lý, soạn giả, đạo diễn, diễn viên, đào tạo diễn viên,... Ở phương diện nào, ông đều tỏ ra xuất sắc: * Về quản lý, ông đã thành lập các gánh Nam Thinh (1933), Ca kịch đoàn Năm Châu (1940 - 1945), Ban Việt kịch Năm Châu (1948 - 1955), sau đó đổi tên thành đoàn Phước Chung (1955 - 1956), đoàn Ánh Chiêu Dương (1967). * Về soạn giả và đạo diễn, ông đã viết và dựng các vở Giọt lệ cương thường, Vẹn tấm lòng son, Võ Tòng sát tẩu (1926), Ngọn cờ hiệp nữ (Một tấm lòng quê), Tiếng nói của trái tim, Huyền Châu nữ chúa, Tội của ai, Thôi Tử thí Tề quân (1927 - 1933), Người với người (Đóa hoa rừng), Tố Hoa nương, Túy Hoa vương nữ, Trường Hận (1935 - 1936), Hoa cuối mùa, Đêm không ngày (1938 - 1939), Mộng hoa vương, Áo người quân tử, Men rượu hương tình, Chiếc áo thiên nga, Nợ dâu, Tư sinh tử, Thái tử Hàm Liệt, Cách Lan phương tử, Gió ngược chiều, Miếng thịt người, Tuyết băng và bạo lực, Tây Thi gái nước Việt, Hồn bướm mơ tiên (1941 - 1953), Sân khấu về khuya, Ngọn cờ đầu (Bình Tây Đại Nguyên soái Trương Định), Nghêu sò ốc hến (1975 - 1978),… * Về diễn viên, ông đóng nhiều vai với những loại nhân vật khác nhau, như Đổng Kim Lân (trong San Hậu), Lã Bố (trong Phụng Nghi Đình), Thôi Tử (trong Thôi Tử thí Tề quân), An Lộc Sơn (trong Trường Hận), Tuyệt sĩ (trong Huyền Châu Nữ), Trần Đạt Văn (trong Tư sinh tử), Ngọc (trong Hồn bướm mơ tiên), Hội đồng Thăng (trong Đời Cô Lựu), Năm Bình (trong Men rượu hương tình), Lĩnh Nam (trong Sân khấu về khuya),… * Về nghệ thuật, ông là một nghệ sĩ rất nghiêm túc. Ông đã từng phát biểu: “Quan niệm về tuồng tích của tôi từ trước đến giờ là cả cuộc đời nào đó, mình thu nhỏ lại để trình diễn có vài ba tiếng đồng hồ trên sân khấu, cho nên cần phải súc tích, cô đọng và nhân vật trong tuồng phải có cá tính khác biệt. Còn về nghệ thuật cải lương, quan niệm của tôi trước sau là một sân khấu thật và đẹp. Vì như vậy, lúc tập tuồng, tôi rất khắt khe với các diễn viên. Tôi bắt anh em đóng vai nào phải ra vai nấy, không được hát cương, phải theo đúng từng lời nói trong tuồng. Ca bản nào cho đúng bản đó. Chớ tôi nghe một vài anh em trẻ ca các bản Nam, Bắc, Oán gần giống như nghe ca vọng cổ, nghe tức muốn bể cái ngực”. * Về đào tạo diễn viên, năm 1948, khi thành lập Ban Việt kịch Năm Châu, ông mới chính thức bắt đầu vai trò đào tạo diễn viên cải lương. Là người đặt nền móng cho một nền cải lương “thật và đẹp”, ông rất chú trọng đến tri thức và hình ảnh đời sống nghệ sĩ. Sinh hoạt của Ban kịch có lề lối, kỷ cương nghiêm túc. Ông nghiêm khắc đề ra các điều nội quy “cấm nói tục, cờ bạc, hút nghiện”. Ông còn thuê người về dạy chữ cho những nghệ sĩ trong ban kịch của mình. Năm 1962, ông được mời làm giáo sư Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ Sài Gòn (nay là Nhạc viện Thành phố Hồ Chí Minh), giảng dạy bộ môn nghệ thuật cải lương. Với tinh thần “ái sinh truyền đạo”, ông đã đúc kết kinh nghiệm thực tiễn hàng chục năm trên sàn diễn nhằm góp phần đào tạo nguồn nhân lực có đức tài cho sân khấu cải lương. Sau 1975, vợ ông - nghệ sĩ Kim Cúc - được mời dạy khóa đào tạo diễn viên Nhà hát Cải lương Trần Hữu Trang, đã dùng giáo án của ông để tiếp tục sự nghiệp mà ông đã dày công vun đắp. Là một nghệ sĩ có lòng yêu nước, năm 1948, ông cùng với các ông Trần Hữu Trang (Tư Trang) và Nguyễn Long Vân (Ba Vân) thành lập Ban Việt kịch Năm Châu, nhằm lợi dụng sân khấu để tập hợp văn nghệ sĩ  và  hoạt động yêu nước theo sự chỉ đạo của ông Mai Văn Bộ, Ủy viên Tuyên truyền của Thành hội Liên Việt thành phố Sài Gòn. Ông tuyên bố: “Sân khấu là môi trường hoạt động chính trị của tôi trong mấy chục năm qua. Tôi tôn trọng sân khấu như một thánh đường”. Sau năm 1954, sinh sống và hoạt động nghệ thuật ở vùng địch tạm chiếm, mặc dù bị nhà cầm quyền o ép, mua chuộc đủ cách, ông vẫn giữ vững bản lĩnh và khí tiết của một nghệ sĩ yêu nước chân chính. Năm 1978, ông mất tại thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1988, do có những đóng góp quan trọng cho nền nghệ thuật cải lương nước nhà, ông được Nhà nước truy tặng danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân.