Dưới đây là tổng hợp những bài thơ hay của Hàn Mặc Tử trong tập Thơ điên (đau thương) được xuất bản năm 1937:
Dưới đây là tổng hợp những bài thơ hay của Hàn Mặc Tử trong tập Thơ điên (đau thương) được xuất bản năm 1937:
Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ tiên phong trong việc cách tân thi pháp của phong trào Thơ mới. Ông đã góp phần làm cho nền văn học dân tộc phát triển đa dạng hơn. Sự đóng góp tích cực của Hàn Mặc Tử phải kể đến việc lập nên “ Trường thơ loạn Bình Định”, mà ở đó thi sĩ họ Hàn là vị chủ soái.
Ma lực của “Thơ điên” mạnh mẽ đến nỗi cuốn hút được cả những nhà thơ tài ba của thời đại Thơ mới đến nhập cuộc: Bích Khê và Chế Lan Viên, Quách Tấn, Yến Lan. Một số nhà thơ đương đại cũng ít nhiều chịu ảnh hưởng của ‘Thơ điên ”, viết những bài thơ “phá phách”, những câu thơ dữ dội kiểu Hàn Mặc Tử. “Thơ điên” còn là một thành tựu đặc sắc vào bậc nhất của thi ca Việt Nam hiện đại mà Hàn Mặc Tử là người có công đầu.
Hàn Mặc Tử – con người tài hoa nhưng bạc mệnh. Thi nhân ra đi khi còn quá trẻ và sự nghiệp văn thơ cũng vừa mới bắt đầu. Tuy nhiên, dù chỉ có hon 10 năm từ khi chập chững bước vào làng thơ cho đến khi rời xa cõi đời, Hàn Mặc Tử cũng đã kịp cho xuất bản hơn 10 tập thơ với hàng chục bài thơ đặc sắc; không chỉ có vậy, thi nhân để lại trong lòng hàng triệu người hâm mộ trên khắp mọi miền tình cảm mến thương và tiếc nuối khôn nguôi.
Sự nghiệp thơ ca của Hàn Mặc Tử là một tháp ngà kiêu sa, tráng lệ, ánh hào quang của nó tỏa sáng chói lòa nhân thế… vì vậy những hình tượng thơ của người đời khi khiến người đọc khó đến gàn, khó nắm bắt và có khi khó hiểu. Âu đó cũng có thể được xem là những hạn chế nhất định của thơ Hàn.
Đọc thơ Hàn Mặc Tử ta bắt gặp một tâm hồn thiết tha yêu cuộc sống, yêu thiên cảnh, yếu con người đến khát khao, cháy bỏng; một khát vọng sống mãnh liệt đến đau đớn tột cùng. Trong thơ Hàn, nhiều bài thơ mang khuynh hướng siêu thoát vào thế giới siêu nhiên, tôn giáo, nhưng đó là hình chiếu ngược của khát vọng sống, khát vọng giao cảm với đời. Một số bài thơ cuối đời của thi sĩ họ Hàn còn đan xen những hình ảnh ma quái – dấu ấn của sự đau đớn, giày vò về thể xác lẫn tâm hồn. Đó là sự khủng hoảng tinh thần, bế tắc và tuyệt vọng trước cuộc đời:
“Ta còn trìu mến biết bao người Vẻ đẹp xa hoa của một thời Đầy lệ, đầy thương, đầy tuyệt vọng Ôi! giờ hấp hối sắp chia phôi.”
Hàn Mặc Tử trải nghiệm đau thương bằng cả tâm hồn lẫn thể xác, bằng cả điên lẫn tỉnh, bằng cả mơ lẫn thực. Thơ được phóng xuất ra từ đấy, được phóng xuất ra như thế trong ngôn ngữ và cả trong im lặng. Nguồn thơ đó băng ra từ tiếng kêu thống thiết và lâm lụy của đời mà vẫn đầy yêu thương. “Cơn lâm lụy vừa trải qua dưới thế” (Thánh nữ đồng trinh Maria).
Tuy nhiên, càng về cuối đời, thơ ông càng tha thiết, thanh thoát, an nhiên, chấp nhận, không còn chất gào thét điên cuồng dữ dội như đã trút hết cơn “lâm lụy” nơi trần thế, dọn sạch mình để chuẩn bị đi vào cõi vĩnh hàng viên mãn một vườn Xuân như ý, cầu nguyện để lại “ra đời” làm một Á Thánh cưỡi “Phượng hoàng bay trong một tối trăng sao” (Đêm xuân cầu nguyện).
Biểu tượng “Trăng”, “Hồn” và “Máu” đã trở thành biểu tượng nghệ thuật bất biến, thường trực và xuyên suốt trong thơ Hàn Mặc Tử. Từ lúc bắt đầu làm thơ cho đến những ngày cuối đời ông, biểu tượng này đã theo ông bay lên “Trên thiên triều ngời chói vạn hào quang”:
Để cho hoa gió thì thào Để cho mây nước nôn nao Quên câu thương nhớ rồi sao Em ơi thế nghĩa là sao
Khi hương thơm kề lỗ miệng Khi tình mới chạm vào nhau Em ơi thế nghĩa là sao Trăng đang nằm trên sóng cỏ
Cỏ đùa trăng đến bên ao Trăng lại đẫm mình xuống nước Trăng nước đều lặng nhìn nhau… Đôi ta bắt chước thì sao ?
“Ta trút linh hồn giữa lúc đây Gió sầu vô hạn nuôi trong cây – Còn em sao chẳng hay gì cả? Xin để tang anh đến vạn ngày.”
“Máu tim ta tuôn ra làm bể cả Mà sóng lòng rồn rập như mây trôi Sóng lòng ta tràn lan ngoài xứ lạ Dâng cao lên, cao tột tới trên trời.”
Ngôn ngữ thuần Việt được sử dụng một cách sáng tạo, được nâng lên một trình độ rất cao nên rất “mới” nhưng cũng rất “Việt Nam”. Nói cách khác, Hàn Mặc Tử bao giờ cũng dùng tiếng Việt một cách “đắt” và táo bạo nhất:
“Làn môi mong mỏng tươi như máu Đã khiến môi tôi mấp máy thèm. Từ lúc bóng em bỏ trái đào Tới chừng cặp má đỏ au au Tôi đều nhận thấy trong con mắt Một vẻ ngây thơ và ước ao”
Mỗi bài thơ của Hàn Mặc Tử vừa mang cấu trúc chặt chẽ vừa vận động hết sức trôi chảy và thường là rất mãnh liệt. Thơ ông khi thì như một dòng suối, nhưng thường thì giống như một dòng thác, một vệt sao băng, chứng tỏ một khí lực thơ hết sức dồi dào và nhất quán. Chính vì thế, ngươi đọc thơ Hàn Mặc Tử như bị một “ma lực” lôi cuốn vào một dòng rung cảm sôi sục của tim và óc.
Hàn Mặc Tử đã đưa vào Thơ mới những sáng tạo độc đáo, những hình tượng ngôn từ đầy ấn tượng, gợi cảm giác liên tưởng và suy tưởng phong phú. Ngoài bút pháp lãng mạn, nhà thơ còn sử dụng bút pháp tượng trưng và yếu tố siêu thực.
Tác phẩm của Hàn Mặc Tử đa dạng nhiều thể loại gồm: Thơ, kịch thơ, văn xuôi, phóng sự, tạp văn, văn tế. Gồm:
Thơ Hàn Mặc Tử bao gồm 239 bài, chia thành 6 tập thơ gồm:
Những bài thơ của Hàn Mặc Tử trong Lệ Thanh thi tập đều là thơ Đường Luật. Các bài thơ này được ông sáng tác khi còn học tại trường Pellerin, Huế.
Các bài thơ của Hàn Mặc Tử trong tập Gái quê là những tác phẩm duy nhất được xuất bản khi tác giả còn sống. Chúng bao gồm:
Những bài thơ Hàn Mặc Tử hay nhất thuộc tập Thượng Thanh Khí gồm:
Thơ Hàn Mặc Tử tập Máu cuồng & Hồn điên bao gồm rất nhiều tác phẩm xuất sắc, trong đó p
Hiểu gì không ý nghĩa của trời thơ? Của hương hoa trong trăng lờn lợt bảy Của lời câm muôn vì sao áy náy Hiểu gì không em hỡi! Hiểu gì không? Anh ngâm nga để mở rộng cửa lòng, Cho trăng xuân tràn trề say chới với, Cho nắng hường vấn vương muôn ngàn sợi; – Cho em buồn, trời đất ứa sương khuya, Để em buồn, để em nghiệm cho ra Cái gì kết lại mới thành tinh tú? Và uyên ương bởi đâu không đoàn tụ? Và tình yêu sao lại dở dang chi? Và vì đâu, gió gọi giật lời đi? – Lời đi qua một chiều trong kẽ lá, Một mùi thơm mới nửa lừng sa ngã, Anh nếm rồi ý vị của làn mơ?
Lệ Kiều ơi! Em còn giữ ý thơ Trong đôi mắt mùa thu trong leo lẻo, Ở xa xôi lặng nhìn anh khô héo. Bên kia trời, hãy chụp cả hồn anh. Hãy van lơn ở dưới chân Bàn thành, Cho yêu ma muôn năm vùng trở dậy, Náo không gian cho lửa lòng bùng cháy, Và để cho kinh động đến người tiên, Đang say sưa ở thế giới Hão huyền, Đang trửng giỡn ở bên sông Ngân biếc…
Anh rõ trước sẽ có ngày cách biệt, Ngó như gần, song vẫn thiệt xa khơi! Lau mắt đi, đừng cho lệ đầy vơi. Hãy mường tượng một người thơ đang sống Trong im lìm, lẻ loi trong dãy động. – Cũng hình như, em hỡi! động Huyền Không Mà đêm nghe tiếng khóc ở đáy lòng, Ở trong phổi, trong tim, trong hồn nữa. Em cố nghĩ ra một chiều vàng úa, Lá trên cành héo hắt, gió ngừng ru: “Một mối tình nức nở giữa âm u, “Một hồn đau rã lần theo hương khói, “Một bài thơ cháy tan trong nắng dọi, “Một lời run hoi hóp giữa không trung, “Cả niềm yêu, ý nhớ cả một vùng, “Hoá thành vũng máu đào trong ác lặn.”
Đấy là tất cả người anh tiêu tán, Cùng Trăng Sao bàng bạc xứ Say Mơ, Cùng tình em tha thiết như văn thơ, Ràng rịt mãi cho đến ngày tận thế.
Ta không nhấp rượu, Mà lòng ta say… Vì lòng nao nức muốn Ghì lấy đám mây bay… Té ra ta vốn làm thi sĩ, Khát khao trăng gió mà không hay! Ta đi bắt nắng ngừng, nắng reo, nắng cháy Trên sóng cành, – sóng áo cô gì má đỏ hây hây… Ta rình nghe niềm ý bâng khuâng trong gió lảng, Với là hơi thở nồng nàn của tuổi thơ ngây Gió nâng khúc hát lên cao vút, Vần thơ uốn éo lách rừng mây. Ta hiểu ta rồi, trong một phút, Lời tình chới với giữa sương bay.
Tiếng vàng rơi xuống giếng, Trăng vàng ôm bờ ao… Gió vàng đang xao xiếng, Áo vàng hở chị chưa chồng đã mặc đi đêm. Theo tôi đến suối xa miền, Cổi thơ, cổi mộng, cổi niềm yêu đương…
Mây trôi lơ lửng trên dòng nước, Đôi tay vốc uống quên lạnh lùng. Ngả nghiêng đồi cao bọc trăng ngủ, Đầy mình lốm đốm những hào quang…
Ta khạc hồn ra ngoài cửa miệng Cho bay lên hí hửng với ngàn khơi Ở trên kia, có một người Ngồi bên sông Ngân giặt lụa chơi Nước hoá thành trăng, trăng ra nước Lụa là ướt đẫm cả trăng thơm Người trăng ăn vận toàn trăng cả Gò má riêng thôi lại đỏ hườm Ta hẵng đưa tay choàng trăng đã Mơ trăng ta lượm tơ trăng rơi Trăng vướng lên cành lên mái tóc cô ơi, Hãy đứng yên tôi gỡ cho rồi cô đi Thong thả cô đi Trăng tan ra bọt lấy gì tôi thương Tối nay trăng ở khắp phương Thảy đều nao nức khóc nường vu qui Say! Say lảo đảo cả trời thơ Gió rít tầng cao trăng ngả ngửa Vỡ tan thành vũng đọng vàng khô Ta nằm trong vũng trăng.
Cả miệng ta trăng là trăng! Cả lòng ta vô số gái hồng nhan; Ta nhả ra đây một nàng, Cho mây lặng lờ, cho nước ngất ngây, Cho vì sao rụng xuống mái rừng say. Gió thổi rào rào như lá đổ, Suối gì trong trắng vẫn đồng trinh. Bóng ai theo dõi bóng mình, Bóng nàng yêu tinh. Dịp cười như tiếng vỡ pha lê… Thưa, tôi không dám say mê, Một mai tôi chết bên khe ngọc tuyền. Bây giờ tôi dại tôi điên, Chấp tay tôi lạy cả miền không gian.
Hẹn tôi tảng sáng đi tìm mộng, Mộng còn lưởng vưởng bến xa mơ… Tiếng gà gáy rụng trăng đầu hạ, Tôi hoảng hồn lên, giận sững sờ!
Máu đã khô rồi thơ cũng khô Tình ta chết yểu tự bao giờ! Từ nay trong gió, – trong mây gió, Lời thảm thương rền khắp nẻo mơ.
Ta còn trìu mến biết bao người Vẻ đẹp xa hoa của một trời, Đầy lệ, đầy thương, đầy tuyệt vọng. Ôi! giờ hấp hối sắp chia phôi!
Ta trút linh hồn giữa lúc đây, Gió sầu vô hạn nuối trong cây… – Còn em sao chẳng hay gì cả? Xin để tang anh đến vạn ngày.
Đo từ ngọn cỏ tới cung trăng Những sợi hào quang vân thước vàng Bắt! Bắt! Thơ bay trong gió loạn Để xem tình tứ nặng bao cân
Ở đây vô số là xuân mộng. Tới tấp lòng tôi lượn sóng trời Ai nỡ dang tay mà vớt lấy Mùi hương trong nếp áo xiêm rơi
Tôi tìm ánh nắng vạn đời vương Vì cuốn sách xưa lúc lạ thường Tờ giấy mong manh tình đã nhạt, Tôi làm sao níu được niềm thương ?
Ở đâu có những lá tinh hoa, Phước lộc vô biên đến mọi nhà Ở đâu có những lương tâm quí, Tiếng thơm lừng thấu đến tai vua
Tôi ước ao là tôi ước ao, Tình tôi vô lượng sẽ dâng cao Như bông trăng nở, bông trăng nở, Những cánh bông thơ trắng ngạt ngào.